Khi người cộng sản mất phương hướng
Thu, 10/31/2013 - 23:28 —
nguyenhuuvinh
Trong bài viết “Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác”, Lênin viết: “Trái lại, tất cả thiên tài của Mác chính là ở chỗ đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Học thuyết của ông ra đời thành sự thừa kế thẳng và trực tiếp học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất cho triết học, chính trị kinh tế học và chủ nghĩa xã hội. Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó chính xác, nó hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thoả hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ áp bức của giai cấp tư sản.” (Giáo dục", số 3, tháng Ba, 1913).
Đúng 100 năm sau, Chủ nghĩa Mác –
Lênin chỉ còn là mớ kinh sách vẫn được dùng để tụng niệm tại một vài nước châu
Á. Khi mà các đệ tử môn phái này đang rã rời, buồn ngủ, mơ màng những bữa tiệc
linh đình và tìm cách hưởng thụ những món tư bản khổng lồ cướp được nhờ địa vị
thống trị của mình, dưới cái nhãn mác cách mạng và ô che của cái Học thuyết Mác
– Lênin “vĩ đại” danh cho giai cấp vô sản kia.
Những thực tế đang diễn ra, đã chứng
minh rằng những điều Lênin đã viết kia, đã ca tụng và lăng
xê trên, chỉ là những món bánh vẽ và là sản phẩm của những sự hoang tưởng dưới
sự kiểm chứng của lịch sử. Họ đã phần nào thành công trong một giai đoạn lịch
sử, đã ru ngủ cả chục triệu, thậm chí là hàng trăm triệu người. Nhưng họ đã
thất bại trong một quá trình lịch sử, cái lý thuyết huyễn hoặc đó đã nhanh
chóng bộc lộ những vô lý và tự hủy. Có thể nói, sự thất bại của Chủ Nghĩa Cộng
sản không phải ở chỗ thực hành, mà ngay cả phần lý thuyết cũng đã được thực tế
chứng minh là: hão huyền và ảo tưởng.
Việt Nam là một trong ba địa chỉ hiếm
hoi còn lại trên thế giới đang tiếp tục bám víu vào thứ hỗn mang này. Hai phần
ba thế kỷ bám trụ, đi theo , sáng tạo, kiên định… đủ
cả mọi ngôn từ và tốn máu xương hàng triệu người, từng phần lãnh thổ đất nước
thì thực tế xã hội hôm nay đã chứng minh được điều gì?
Thực tế của “Ba cuộc cách mạng”
Thay cho “một nền sản xuất có năng
suất cao hơn hẳn so với nền sản xuất TBCN” thì năng suất lao động của “phương
thức sản xuất XHCN” đã trở thành chuyện hài hước nếu đem so sánh. Thay cho mối
quan hệ sản xuất tiên tiến, thì phương thức này đã đẻ ra một mối quan hệ sản
xuất sử dụng 30% số người làm việc và 30% số công chức sáng cắp ô đi, tối cắp
về. Đó là những kết luận của quan chức, báo chí Việt Nam
tại Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hôm nay.
Thay cho mối quan hệ sản xuất lấy giai cấp
công nhân làm trọng tâm, mọi thành phần được hưởng thụ thành quả lao động xã
hội, thì sản phẩm xã hội tập trung vào một đám tư bản đỏ là đảng viên Cộng sản.
Chức năng của đám này là bòn rút, tích lũy, phá phách sản phẩm xã hội và là giặc
nội xâm của đất nước.
Với mối quan hệ, trình độ sản xuất và năng
suất lao động đó, thì đời sống vật chất mà được nâng cao để dần tiến tới “làm theo năng lực, hưởng theo
nhu cầu” là chuyện điên rồ.
Ngoài ra, cuộc cách mạng về khoa học kỹ
thuật được coi là “then chốt” thì kết quả thảm hại thay. Cả đất nước không tìm
nổi một cơ sở sản xuất chiếc đinh ốc đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để có thể đảm
đương vai trò đại lý sản xuất cho một hãng tư bản con con. Mọi thành quả kỹ
thuật của “Phe Xã hội Chủ nghĩa” đều là sự học mót hoặc ăn cắp của “bọn tư bản
giãy chết”.
Có lẽ, cần phân tích sâu sắc hơn về
cuộc cách mạng thứ 3: Cuộc cách mạng Tư tưởng và văn hóa - Một cuộc phá hủy
nền văn hóa lâu đời và niền tin tôn giáo
Khi đảng cộng sản hò hét “Tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ nghĩa Xã hội (CNXH), bằng ba cuộc Cách mạng”
thì cả nước rùng mình bởi những trận càn vào tâm linh, tôn giáo, văn hóa cội
nguồn. Đặc biệt nhất là trong ba cuộc cách mạng, cuộc “Cách mạng Tư tưởng và
văn hóa” có chiều sâu nhất đánh vào tâm tư, suy nghĩ, lối sống, đạo đức và tín
ngưỡng tôn giáo của dân tộc.
Mở đầu là cuộc Cải cách ruộng đất,
một chiến dịch làm tan rã quan hệ sản xuất và nền văn hóa ngàn đời của
dân tộc Việt Nam .
Bên cạnh việc chiếm đoạt công cụ sản xuất, tài sản ruộng vườn của “giai cấp địa
chủ”, chiến dịch này còn làm băng hoại những nét văn hóa truyền thống mà để có
nó, người dân Việt phải mất hàng ngàn năm chắt lọc và xây dựng. Cuộc “cải cách”
đó thực hiện phương châm “Trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ”, nghĩa
là mọi thành phần ưu tú của dân tộc đều sẽ bị tiêu diệt.
Bên cạnh việc một tầng lớp người dân bị mất
tài sản, thì tư duy cướp tập thể, cướp trắng thành quả lao động bao đời, tư duy
bất chấp sự công bằng xã hội xóa bỏ sự lương thiện của con người được công khai
du nhập, khuyến khích dưới cái tên mỹ miều: Cách mạng vô sản.
Tiếp đến là cuộc cách mạng vào văn hóa, văn
học, báo chí… những công cụ trên mặt trận tư tưởng. Vụ Nhân Văn giai phẩm, hàng
loạt tác phẩm bị lên án, thủ tiêu, hàng loạt tác giả bị cầm tù, đày đọa, thậm
chí là tù đày đến chết.
Thế rồi, hàng loạt chùa chiền, miếu
mạo, nhà thờ, thánh thất bị triệt hạ không thương tiếc. Khi đó, Đức Chúa, Đức
Phật, Thánh, Thần… đều được xếp vào thành phần phản động. Một cuộc “cách mạng
vô sản” được thực thi nhằm trục xuất Chúa Trời ra khỏi vũ trụ, trục xuất tư hữu
ra khỏi xã hội, trục xuất thần thánh ra khỏi đời sống và trục xuất linh hồn ra
khỏi con người.
Tất cả để phục vụ một cuộc “cách mạng văn
hóa và tư tưởng”.
Điển hình, là những phe nhóm cộng sản vô
thần được đưa vào chùa chiền, lập căn cứ, nhen nhóm các lực lượng vũ trang,
chém giết… những hành động hoàn toàn đi ngược lại với chùa chiền là nơi tu tâm
phát đức. Còn những chùa chiền khác không có tác dụng cho những việc đó thì bị
đập bỏ không thương tiếc.
Điển hình là những thánh thất, nhà thờ, đền
Thánh... nếu không được sử dụng cho cuộc bạo lực cách mạng, nếu không bị đập
bỏ, thì hạn chế đến mức tối đa dẫn tới tự tiêu diệt. Tiến hành chiếm, cướp, lấn
lướt và chèn ép đến mức có thể nhằm trục xuất khỏi đời sống xã hội. Đặc biệt,
thay vì những nơi tôn nghiêm, thờ tự, nêu cao tình yêu thương, nhà cầm quyền
Cộng sản dùng Nhà thờ, thánh thất làm “Nơi ghi dấu tích tội ác”.
Hậu quả là gì?
Một đất nước kiệt quệ, một xã hội
hỗn loạn và băng hoại, không có trật tự, con người xử sự với nhau như dã thú.
Đạo đức xã hội suy đồi, những hiện tượng con đánh cha, trò đánh thầy, con chửi
bố mẹ… là chuyện cực hiếm trong văn hóa đất nước trở thành chuyện thường ngày.
Một xã hội ích kỷ và vô cảm, tệ nạn và đồi trụy được hình thành và dẫn đầu bởi
chính cái gọi là “Đội ngũ ưu tú của giai cấp công nhân và dân tộc”.
Năm 1977, Liên
Xô – được coi là thành trì của phe XHCN - tuyên bố
đã hoàn thành giai đoạn xây dựng Chủ Nghĩa
xã hội để bắt đầu xây dựng Chủ Nghĩa Cộng sản. Thế mà chỉ 12 năm sau, cả thành
trì xây dựng bao công sức máu xương kia đổ cái rụp không thể nào chống đỡ.
Sau mấy chục năm khẳng định con đường quá
độ đi lên Chủ Nghĩa xã hội mà “đảng và bác đã chọn” hộ dân tộc Việt Nam là con
đường hiện thực, duy nhất đúng đắn, dần dần các lãnh đạo cộng sản mới
thừa nhận sự u mê và hão huyền mơ hồ khi đặt niềm tin vào đó. Tổng Bí Thư
Nông Đức Mạnh còn mơ hồ theo kiểu “năm
ăn năm thua” rằng: “Chủ nghĩa xã hội sẽ dần dần sáng tỏ”. Còn mới đây
Tổng bí thư Đảng Cộng sản ngao ngán thổ lộ: “Đến hết thế kỷ này không biết
đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam
hay chưa”. Nghĩa là, cứ đi hết thế kỷ này theo
con đường quá độ và yên chí là chưa có cái Chủ nghĩa xã hội, còn khi đến đó, nó
là cái gì thì sẽ biết. Nếu là quả núi thì leo
lên ngồi, nhỡ không may là hố sâu, thì cả dân tộc cứ xuống đó mà lặn.
Niềm tin yếu ớt vào “ngày mai tươi sáng của
Chủ nghĩa xã hội” đã nhanh chóng rơi rớt ngay chính từ những người lãnh đạo, từ
chính những đảng viên cộng sản. Hàng loạt cán bộ cộng sản cao cấp đến cấp thấp,
những người đã tự nhận, được tôn xưng là người cộng sản gộc đã từ bỏ tư tưởng
của mình cách này cách khác, bằng hình thức này hoặc hình thức khác, khi thì cá
nhân, khi thì tập thể, khi thì một nhóm, khi cả hệ thống. Điều này rất dễ thấy.
Với thể chế đảng lãnh đạo tuyệt đối, luôn
nghĩ thay, định hướng thay, lựa chọn thay cho người dân, do vậy khi hàng ngũ
đảng viên, lãnh đạo mất phương hướng, thiếu niềm tin, thì xã hội cũng khủng
hoảng niềm tin là điều không lạ.
Vì vậy, nó tạo nên sự thất vọng ở ngay
chính những thành phần cộng sản, tạo nên sự hoang mang và đó là cơ hội cho thói
mê tín, dị đoan phát triển. Bên cạnh đó, chủ nghĩa thực dụng, dối trá cũng được
dịp bùng nổ ở mọi tầm cao thấp.
Những chiếc phao cứu sinh vội vàng chắp vá
Chính sự hỗn mang đó đã tạo ra một thứ tôn
giáo hổ lốn theo ý những người cộng
sản. Trước hết, đảng khẩn cấp sáng tác ra cái gọi là Tư tưởng Đạo đức Hồ Chí
Minh , một sản phẩm mới được sáng
tác vội vàng lấp vào chỗ trống khi phe cộng sản sụp đổ và người ta thấy những
giòi bọ nhung nhúc trong nội tạng của nó. Môn đạo đức tư tưởng Hồ Chí
Minh như một món ăn mới được chế
biến tốn kém nhưng bởi những đầu bếp tồi. Không đủ sức thay thế món bánh vẽ
ngọt ngào về Chủ nghĩa Cộng sản mà người ta vẫn được ru ngủ, được xài miễn phí
bấy lâu nay. Do vậy, đảng tiếp tục chi tiền dân cho việc lũng đoạn tôn giáo
hoặc sáng tác các tôn giáo mới. Đó là thứ tôn giáo phục vụ sự tồn tại và cai
trị của đảng bằng bất cứ giá nào. Đó là thứ tôn giáo “Đoàn kết Công giáo”, là
thứ Phật giáo “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” dần dần bị hủ hóa miễn là
đảng nắm được thứ tôn giáo đó từ gốc đến ngọn.
Đó cũng là các thứ tà đạo như tà đạo Hồ Chí
Minh, các chùa chiền khổng lồ, các loại ngoại cảm, bói tướng, thầy pháp, đồng
bóng, vàng mã… những thứ mà đã một thời là kẻ thù của Chủ nghĩa Cộng sản.
Người ta không cần e ngại đảng có trăm tay,
nghìn mắt khi người ta đốt
vàng mã hàng trăm triệu đồng. Người ta không sợ hãi khi “gọi hồn” chính ông
Hồ Chí Minh
– ông tổ Cộng sản vô thần ở Việt Nam lên để mà truy hỏi… Người ta
cũng không ngại dùng “nhà ngoại cảm” để gọi hồn Hà
Huy Tập, Nguyễn
Đức Cảnh, Nguyễn Văn Cừ, Phùng Chí Kiên, thậm chí là cả Trần Phú.
Thậm chí, ngay cả khi người ta đúc tượng Thánh Gióng , họ còn đúc cả
tim cho tượng Thánh Gióng
và tượng con ngựa. Điều đặc biệt hài hước, là ý tưởng này lại xuất phát từ Thủ
tướng Chính phủ, một người đã tự hào là đi theo
đảng tận 51 năm nay.
Nếu như, những người cộng sản hôm nay còn
có niềm tin vào Chủ nghĩa Mác – Lenin, thì những hành động này, là sự phỉ báng
công khai cái lý tưởng Cộng sản, cái mà cả đời ông Hồ Chí Minh, Hà Huy Tập,
Nguyễn Văn Cừ, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Võ Nguyên Giáp… đã theo
đuổi.
Nếu như Các Mác, người đã dành cả
đời hoạt động, chiến đấu cho cái “Công”, để rồi khi chết, lại phải chui vào một
nghĩa địa “Tư” để nằm, thì những người Cộng sản Việt Nam đã phấn đấu cả đời để
chứng minh cho Chủ nghĩa Cộng sản không thần thánh, mà quỷ và linh hồn… đã phải
cậy nhờ ma quỷ, thần thánh và linh hồn để tìm lại thân xác mục nát của mình.
Và khi sử dụng những biện pháp này, nghĩa
là người ta đã phủ nhận công khai những gì họ nói, rằng Chủ nghĩa Mác – Lenin luôn là sợi chỉ đỏ, là nền tảng tư tưởng của Đảng cộng
sản. Hoặc nói cách khác, họ ngang nhiên coi đảng cộng sản mà họ là thành viên
chẳng có ký lô giá trị nào trong thực tế.
Thế nhưng, từ chỗ không tin thần thánh, ma
quỷ theo chủ thuyết cộng sản, đến chỗ khủng hoảng và vơ váo bất cứ thần thánh
nào, miễn giúp họ thực hiện được giấc mơ thực dụng về vật chất và thăng quan
tiến chức bằng mọi giá để thỏa mãn nhu cầu đó, họ đã làm băng hoại các tôn giáo
để phục vụ mục đích của họ.
Đó là những thể hiện sinh động tình trạng
mất phương hướng của người Cộng sản Việt Nam hôm nay.
Hà Nội, ngày 31/10/2013
J.B Nguyễn Hữu
Vinh
·
No comments:
Post a Comment