RFA
Cơ quan Tình báo quân đội Việt Nam
và những dấu hiệu của một đại họa
Trân Văn
Phóng viên RFA
Phóng viên RFA
1
“Tổng cục 2” là cách gọi tắt cơ quan đặc trách tình báo của Quân đội Nhân dân Việt Nam và kể từ năm 2004 đến nay, ba từ “Tổng cục 2” nhắc nhiều người nhớ đến một scandal, tuy ầm ĩ nhưng vẫn chưa có hồi kết.
Hồi thượng tuần tháng 6, chỉ trong vòng hai ngày, tướng Võ Nguyên
Giáp – một nhân vật được xem như “khai quốc công thần” của nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay – đã gửi liên tiếp hai
lá thư, lặp lại một yêu cầu từng được ông nêu ra từ đầu năm 2004, đó
là những nhân vật cao cấp trong Đảng và chính quyền đương nhiệm, cần
giải quyết triệt để những vấn đề liên quan đến Tổng cục 2 thuộc Bộ
Quốc Phòng.
Scandal “Tổng cục 2”
Đã và đang có những dấu hiệu cho thấy “Tổng cục 2” không còn đơn
thuần là một scandal về những thủ đoạn tàn độc mà một số cá nhân,
phe nhóm trong Đảng CSVN sử dụng để triệt hạ đối thủ của mình, nhằm
thâu tóm quyền lực.
Các tình tiết trước, trong và sau scandal “Tổng cục 2” chỉ ra một
nguy cơ khác, đáng ngại hơn đối với vận mệnh quốc gia.
Tiền thân của cơ quan tình báo quân đội Việt Nam hiện nay là Phòng
Tình báo Quân ủy hội, thành lập vào tháng 10 năm 1945, do ông Hoàng
Minh Đạo phụ trách. Sau một sắc lệnh được ban hành vào tháng 3 năm
1946 về tổ chức Bộ Quốc Phòng, tháng 3 năm 1947, Phòng Tình báo Quân
ủy hội được chuyển thành Cục Tình báo, còn được gọi là Cục Quân báo
hoặc gọi tắt là Cục 2.
Trong 48 năm sau đó, Cục 2 vẫn chỉ là một cơ quan trực thuộc Bộ Tổng
Tham mưu của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thế rồi đến năm 1995, Cục 2 được nâng lên thành Tổng cục 2, với tên
gọi chính thức là Tổng cục Tình báo Quốc phòng và từ vị trí phụ
thuộc, Tổng cục 2 được chuyển thành cơ quan ngang hàng với Bộ Tổng
Tham mưu.
Vai trò của Tổng cục 2, được ông Nông Đức Mạnh, khi ấy đang là Chủ
tịch Quốc hội, hợp pháp hoá bằng Pháp lệnh Tình báo ban hành vào
tháng 12 năm 1996. Sau đó, pháp lệnh vừa kể được ông Võ Văn Kiệt chi
tiết hoá, bằng Nghị định 96, ban hành vào tháng 9 năm 1997.
Pháp lệnh Tình báo đã đưa Tổng cục 2 thoát ra khỏi sự kiểm soát của
Bộ Quốc Phòng khi xác định: “Lực lượng tình báo Việt Nam là một
trong những lực lượng trọng yếu, tin cậy của Đảng và nhà nước, đặt
dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản
Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của
Chính phủ (gọi tắt là lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước)”.
Và Nghị định 96 đã phá vỡ mọi giới hạn về vai trò và hoạt động của
Tổng cục 2, khi nhấn mạnh: “Đối tượng và mục tiêu của lực lượng tình
báo thuộc Bộ quốc phòng là những nơi có tin tức, tài liệu liên quan
đến nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
Trong đó đặc biệt chú ý đến các quốc gia, tổ chức và các cá nhân ở
trong nước và ngoài nước có âm mưu hoạt động, đe doạ chống lại Đảng
CSVN, Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam”
Cũng vì thế, Tổng cục 2 trở thành một cơ quan, liên tục bị các công
thần như: ông Phạm Văn Xô – một trong những lãnh đạo đầu tiên của
Đảng Cộng sản Đông Dương, cựu Phó Ban Tổ chức Trung ương hoặc những
cán bộ, sĩ quan cao cấp của Đảng CSVN, chính quyền Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam như:
Đại tướng Võ Nguyên Giáp – cựu Bộ trưởng Quốc Phòng, người thành lập
Quân đội nhân dân Việt Nam. Đại tướng Chu Huy Mân - cựu Phó Chủ tịch
Hội đồng Nhà nước, cựu Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Đại tướng
Nguyễn Quyết - cựu Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, cựu Chủ nhiệm
Tổng cục Chính trị. Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh - cựu Phó Chủ
nhiệm Tổng cục Chính trị.
Thượng tướng Phùng Thế Tài - cựu Phó Tổng tham mưu trưởng. Thượng
tướng Lê Ngọc Hiền - cựu Phó Tổng tham mưu trưởng. Thượng tướng
Hoàng Minh Thảo – cựu Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Quân
sự. Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp – cựu Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Quân
ủy Trung ương. Trung tướng Đồng Văn Cống - cựu Phó Tổng thanh tra
Quân đội.
Trung tướng Lê Tự Đồng - cựu Viện phó Học viện Quân sự cấp cao.
Trung tướng Phạm Hồng Sơn - cựu Viện phó Học viện Quân sự cấp cao.
Trung tướng Nguyễn Hoà – cựu Trưởng Đoàn Chuyên gia Quân sự tại Lào.
Thiếu tướng Nguyễn Tài - cựu Thứ trưởng Bộ Công an. Ông Nguyễn Văn
Thi - cựu Chủ nhiệm Hậu cần Bộ Tư lệnh Miền... cùng với rất đông cán
bộ lão thành cách mạng, sĩ quan cấp tá, đòi phải kiểm tra toàn diện,
xử lý triệt để.
Siêu quyền lực
Tổng cục 2 đã hoạt động ra sao và đã làm những gì khiến các công
thần, những trụ cột của chế độ phẫn nộ đến như vậy?
Trong nhiều thư được gửi liên tục cho Tổng Bí thư, Bộ Chính trị,
những nhân vật vừa kể đã nêu ra vai trò, ý đồ của một số người tham
gia nâng Cục 2 thành Tổng cục 2 và biến Tổng cục 2 thành một cơ quan
“siêu quyền lực”, khiến Tổng cục 2 trở thành hiểm họa.
Trong đó, có hai sai phạm bị xác định là “siêu nghiêm trọng” và được
nhắc đi, nhắc lại nhiều lần: Vụ Sáu Sứ và vụ T4.
Ông Bùi Tín - cựu Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, người theo dõi
rất sát các diễn biến liên quan đến Tổng cục 2, tóm tắt về vụ Sáu
Sứ:
“Vụ Sáu Sứ còn gọi là vụ Năm Châu, xảy ra từ Đại hội 7, năm 1991. Vụ
đó do bàn tay của Tổng cục 2, bố trí cho một số Đảng viên lâu năm ở
miền Nam là Năm Châu và Sáu Sứ ra Hà Nội, mục đích để giăng bẫy ông
Võ Nguyên Giáp, rồi từ đó, kết luận là ông Võ Nguyên Giáp bè phái,
tham quyền, có ý đồ tập trung một số tay chân của mình để lật đổ Bộ
Chính trị và chính quyền hồi đó.
Thế nhưng tất cả những chuyện này là chuyện dựng đứng. Do đó mà ông
Giáp yêu cầu phải làm rõ vụ Năm Châu và Sáu Sứ. Lúc ấy, họ cho rằng
ông Giáp có ý định giành quyền Tổng bí thư và được ông Trần Văn Trà
tiếp sức. Ông Trần Văn Trà định là giành chức Bộ trưởng Quốc phòng.
Thế nhưng tất cả những cái đó đều là sự bịa đặt của Lê Đức Anh, của
Nguyễn Chí Vịnh, của Đỗ Mười, để làm hại ông Võ Nguyên Giáp. Đấy là
tóm tắt vụ Sáu Sứ với Năm Châu. Cả ông Năm Châu, bà Sáu Sứ đều đã
chết rồi.”
Vụ T4 cũng có tính chất tương tự, ông Bùi Tín kể tiếp:
“Vụ T4 là vụ Nguyễn Chí Vịnh, cầm đầu Tổng cục 2 bịa đặt rằng họ đã
đặt được một gián điệp của Việt Nam vào cơ quan CIA và điệp viên đó
có bí danh là T4. T4 thông báo danh sách những người đã cộng tác với
CIA, đã tiếp xúc với CIA, đã làm tay sai cho CIA.
Danh sách đó dài lắm. Nó lên tới hơn 20 người. Trong đó có Thủ tướng
Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà
rồi những người lúc bấy giờ đang còn tại chức như Thủ tướng Võ Văn
Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, bà
Võ Thị Thắng,..
Mục đích của họ là gì? Mục đích của họ là bôi nhọ những người đó,
rồi Tổng cục 2 cùng với Lê Đức Anh và Đỗ Mười được nước láng giềng
lớn giúp đỡ làm một cuộc đảo chính, lật đổ hết và dựng lên một chính
quyền mới, một Bộ Chính trị mới, một Ban Chấp hành Trung ương hoàn
toàn mới và hoàn toàn là tay sai của Bắc Kinh.
Đó là mưu đồ của T4 và cũng đã bị ông Giáp tố cáo, yêu cầu phải giải
quyết một cách triệt để.”
Theo nhiều tài liệu, Sáu Sứ và T4 chỉ là hai trong hàng loạt sai
phạm đã xảy ra tại Tổng cục 2 và sự phẫn nộ trong hàng ngũ các công
thần, những trụ cột của chế độ đã buộc Đảng CSVN phải tính đến việc
xem xét toàn diện các sai phạm này vào năm 2005.
Kết qủa xem xét, xử lý ra sao? Chúng tôi sẽ tiếp tục tổng hợp và
tường trình trong bài kế tiếp
2
Trong buổi phát thanh trước,
Trân Văn đã tóm tắt về sự hình thành Cục Tình
báo của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt
Nam, còn được gọi là Cục Quân báo, hay gọi tắt
là Cục 2 và vì sao, năm 1995, Bộ Tổng Tham mưu
đồng ý cho Cục 2 tách ra để nâng lên thành Tổng
cục Tình báo Quốc phòng, quen được gọi là Tổng
cục 2, trước khi Pháp lệnh Tình báo được ban
hành vào cuối năm 1996, cũng như một số nguyên
nhân khiến cơ quan này bị hàng loạt công thần,
trụ cột của chế độ lên tiếng đòi phải kiểm tra
toàn diện, xử lý triệt để.
Buổi phát thanh này, Trân Văn trình bày tiếp những diễn biến sau đợt phản ứng
đầu tiên, kéo dài trong hai năm 2004 và 2005.
Không
chỉ dàn dựng vụ Sáu Sứ và T4 với những tình
tiết như ông Bùi Tín đã kể trong bài trước,
tại Tổng cục 2 còn xảy ra nhiều chuyện tày
trời khác.
Phá hoại Đảng một cách có hệ thống
Sau lá thư đề ngày 3 tháng 1 năm 2004 của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong đó ông yêu
cầu, Hội nghị Trung ương 9, khoá 9 xử lý
kiên quyết, dứt điểm, nghiêm minh một tổ
chức mà ông nhận định là “siêu đảng, siêu
chính phủ, phá hoại Đảng một cách có hệ
thống”, ở lá thư viết ngày 17 tháng 6
năm 2004 – một trong những tài liệu được
nhận định là quan trọng nhất đối với vụ Tổng
cục 2 - Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, một
trong những người được Bộ Chính trị phân
công theo dõi việc bảo vệ chính trị nội bộ,
cho biết:
Các vấn đề của Tổng cục 2 còn nhiều như tổ
chức thu thập tài liệu và theo dõi cán bộ
cao cấp, tổ chức cơ sở làm tài liệu giả, vu
cáo nhiều đồng chí là đã làm tay sai cho
địch. Người của Tổng cục 2 đã bán kế hoạch
phòng thủ bầu trời cho nước ngoài. Người của
Tổng cục 2 làm parabol để thu tiền bất hợp
pháp, gian lận thuế giá trị gia tăng. Người
của Tổng cục 2 còn đưa tài liệu lên mạng
Internet nói xấu cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà
nước. Đặc biệt, Tổng cục 2 đã sử dụng một số
người phức tạp, cài cắm người vào các cơ
quan Đảng, Nhà nước để lấy tin, tung tin,
bịa đặt, lừa dối Đảng… Cán bộ tình báo quân
sự còn cấp giấy chứng minh quân báo cho tay
chân Năm Cam hoạt động và liên hệ chặt chẽ
với tay chân Năm Cam...
Khó mà tưởng tượng được những hành động phạm
pháp nghiêm trọng ấy lại diễn ra trong một
cơ quan làm nhiệm vụ tình báo quân sự cấp
chiến lược. Cơ quan tình báo mà bịa ra cơ sở
đặc tình “ma” để lừa dối, vu khống chính trị
cán bộ cao cấp từ Tổng bí thư, Ủy viên Bộ
Chính trị, Thủ tướng, Đại tướng, Thượng
tướng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng…
là phạm tội ngang với tội phản bội Tổ Quốc,
phản bội Đảng.
Cũng theo tướng Nguyễn Nam Khánh: Những
bản tin mà Tổng cục 2 đưa ra là nhằm vu
khống chính trị, lừa dối, chia rẽ nội bộ
Đảng, phá hoại Đảng, Nhà nước và quân đội,
gây sự phân tâm, lũng đoạn tinh thần cán bộ
đảng viên và nhân dân, vi phạm nghiêm trọng
pháp luật, nguyên tắc kỷ luật đảng, tạo ra
oan trái và đau khổ cho nhiều đồng chí. Với
những bản tin mà tôi không thể trích dẫn
hết, đã buộc cấp lãnh đạo cao nhất điều tra,
thẩm tra, ít nhất là 10 vụ gây ra rất nhiều
phức tạp.
Tướng Nguyễn Nam Khánh nhận định: Đó là
hành động phá hoại đảng, phá hoại chế độ xã
hội chủ nghĩa, phá hoại Tổ Quốc. Đó không
phải là chuyện riêng nội bộ Tổng cục 2, nội
bộ Bộ quốc phòng. Đó là vấn đề của toàn
Đảng, của pháp luật, của chế độ xã hội chủ
nghĩa, liên quan đến an ninh của Tổ Quốc,
đến đại đoàn kết dân tộc. Đó chính là nguy
cơ làm mất sự ổn định chính trị, đã gây hậu
quả nghiêm trọng... Nếu không kiên quyết xử
lý thì sẽ dẫn đến mất ổn định chính trị ngày
càng tăng, như một ung nhọt làm tan rã Đảng
và chế độ.
“Thất trảm sớ”
Những ý kiến như thế của tướng Nguyễn Nam
Khánh, của ông Phạm Văn Xô, một trong những
lãnh đạo đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông
Dương, rồi của hàng chục vị tướng và nhiều
cán bộ lão thành cách mạng, nhiều sĩ quan
cấp tá đã được tiếp nhận thế nào? Việc xem
xét, xử lý các sai phạm ra sao?
Ông Bùi Tín kể: Lá
thư của ông Giáp được rất nhiều vị tướng, từ
ông Chu Huy Mân đến một số vị thiếu tướng,
đặc biệt ông Nguyễn Nam Khánh hết sức ủng
hộ. Do đó trước Đại hội 10, năm 2005, Ông
Nông Đức Mạnh bị buộc phải tổ chức ra một
ban, gọi là Ban Kiểm tra liên ngành đặc
biệt, gồm đại diện của: Toà án nhân dân Tối
cao, Viện Kiểm sát Tối cao, Bộ Tư pháp, Ban
Bảo vệ Trung ương, Cục Bảo vệ Quân đội, Bộ
Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính,... lên
đến hơn 20 người. Ban Kiểm tra liên ngành đã
làm việc và đã có một báo cáo- mà tôi
được biết là dày đến 70 trang – hoàn thành
trước Đại hội 10.
Trước khi Đại hội 10 họp thì ông Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh cùng với Bộ Chính trị lúc đó
có một sáng kiến là ỉm báo cáo này đi. Họ
cho là báo cáo này nguy hiểm quá. Nếu trong
Đảng và nhân dân được biết thì có thể tạo ra
sự đảo lộn rất lớn về chính trị. Ông ấy viện
cớ là nếu phổ biến, trung ương mà biết, đại
hội mà biết thì gia đình, bạn bè họ đều biết
thì khó có thể giữ được bí mật. Cho nên ông
Nông Đức Mạnh mới thuyết phục Bộ Chính trị,
thuyết phục Ban Chấp hành Trung ương trước
Đại hội 10 là không phổ biến báo cáo tuyệt
mật đó.
Ông ấy yêu cầu là do sự ổn định của chế độ,
ổn định của Đảng, coi như Bộ Chính trị khoá
trước đã xem và coi như đã giải quyết xong
xuôi. Hủy báo cáo này đi, coi như báo cáo
này không có.
Vì sao những người có trách nhiệm xem xét,
giải quyết các sai phạm xảy ra ở Tổng cục 2
đã quyết định như vậy mà câu chuyện về cơ
quan này vẫn chưa kết thúc? Ông Bùi
Tín giải thích: Vấn đề này không thể ỉm
hoàn toàn được, bởi vì nó dai dẳng, bởi vì
ngay trong Tổng cục 2 đã có những sĩ quan
dũng cảm, có những sĩ quan trung thành với
sự thật, trung thành với nhân dân, thấy
những việc làm bậy quá nên tiếp tục tố cáo.
Trong đó có hai ông là ông Vũ Minh Ngọc và
ông Vũ Minh Trí. Ngay từ năm 2005, ông Vũ
Minh Ngọc đã có một lá thư gọi là “Thất trảm
sớ”, nêu lên 7 tên rất nguy hiểm, cần phải
gạt bỏ mới có thể cứu được Đảng, cứu được
chế độ. Sau đó, ông Vũ Minh Ngọc viết thư
thứ hai và cũng gửi cho cả tướng Giáp. Tướng
Giáp rất ủng hộ ý kiến: Phải giải quyết
triệt để vụ án siêu nghiêm trọng của Tổng
cục 2. Năm nay, thư của ông Vũ Minh Trí hâm
lại vụ này và tướng Giáp lại lên tiếng ủng
hộ một lần nữa.
Người gửi “Thất trảm sớ” – Trung tá Vũ Minh
Ngọc hiện nay thế nào? Tâm trạng cũng như
suy nghĩ của một số cán bộ lão thành cách
mạng sau khi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành
Trung ương khoá 9 quyết định ém nhẹm vụ Tổng
cục 2 ra sao? Đó sẽ là nội dung bài thứ ba.
Mời qúy vị đón nghe.
3
Tâm
trạng cũng như suy nghĩ
của một số cán bộ lão
thành cách mạng sau khi
Bộ Chính trị và Ban Chấp
hành Trung ương khoá 9
quyết định ém nhẹm vụ
Tổng cục 2 ra sao?
Trong hai bài trước,
Trân Văn đã tổng hợp và
tường trình về những nội
dung có liên quan đến
các sai phạm nghiêm
trọng xảy ra tại Tổng
cục 2, cũng như lối xử
lý hết sức khó hiểu của
lãnh đạo Đảng CSVN đối
với Tổng cục 2.
Ở bài này, Trân Văn
phỏng vấn một số
nhân vật có liên
quan hoặc trực tiếp,
hoặc gián tiếp đến
việc tố cáo các sai
phạm tại Tổng cục 2.Chờ đợi cho đến chết
Đến nay, hầu hết
những người từng lên
tiếng yêu cầu xem
xét, xử lý các sai
phạm ở Tổng cục 2,
trong giai đoạn từ
cuối thập niên 1990,
đầu thập niên 2000
đến năm 2005 như:
ông Phạm Văn Xô, Đại
tướng Chu Huy Mân,
Thượng tướng Lê Ngọc
Hiền, Thượng tướng
Hoàng Minh Thảo,
Thượng tướng Đặng Vũ
Hiệp, Trung tướng
Đồng Văn Cống, Trung
tướng Nguyễn Hoà,...
đều đã qua đời, phần
lớn những người còn
lại thì già yếu,
bệnh tật.
Chúng tôi đã thử gọi
điện thoại, phỏng
vấn một số người để
xin thêm ý kiến của
họ về vụ Tổng cục 2,
cũng như suy nghĩ,
thái độ của họ về
cách xử lý vụ này
của lãnh đạo Đảng
CSVN.
Cuộc phỏng vấn đầu
tiên được thực hiện
với cựu Trung tá Vũ
Minh Ngọc – nhân vật
đã từng gửi “Thất
trảm sớ”. Người nhấc
điện thoại là vợ cựu
Trung tá Vũ Minh
Ngọc, bà cho biết:
Bây giờ ông cháu
đang bị bệnh cho nên
trí nhớ không tốt
lắm nhưng mà thôi
cũng để ông cháu gặp
cho nó khuây khỏa...
Có người gọi có phải
bác Ngọc không và
muốn hỏi chuyện...
Đây ông nghe...
Tuy đang trong tình
trạng bán thân bất
toại kèm nhiều chứng
bệnh khác, sức khoẻ
rất kém, song khi
nghe đề cập đến Tổng
cục 2, cựu Trung tá
Vũ Minh Ngọc, 82
tuổi vẫn cố gắng xác
nhận với chúng tôi
qua một cuộc trao
đổi ngắn:
Trân Văn:
Sau khi bác gửi thư,
đến nay có hồi báo
gì không ạ?
Trung tá Vũ Minh
Ngọc: Chưa có
hồi âm gì ạ.
Trân Văn:
Từ khi bác gửi thư,
các cơ quan chức
năng có cử người đến
hỏi thăm thêm về
những nội dung trong
thư không?
Trung tá Vũ Minh
Ngọc: Không
ạ!
Trân Văn:
Hiện nay, vụ Tổng
cục 2 cũng vẫn cứ
còn như cũ phải
không ạ?
Trung tá Vũ Minh
Ngọc:
Vâng!
Cuộc phỏng vấn thứ
hai, theo dự tính sẽ
thực hiện với ông
Nguyễn Văn Thi, vẫn
được gọi là Năm
Thi, Chủ nhiệm Hậu
cần Bộ Tư lệnh Miền
giai đoạn trước
tháng 4 năm 1975, có
69 tuổi Đảng, người
mà từ năm 1986 đã
gửi sáu lá thư yêu
cầu lãnh đạo Đảng
CSVN giải quyết hàng
loạt vấn nạn trong
Đảng, trong đó có vụ
Tổng cục 2.
Đến tháng 2 năm
2006, ông Nguyễn Văn
Thi tiếp tục gửi lá
thư thứ 7, trực tiếp
phê bình Tổng Bí
thư, các Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên
Ban Chấp hành Trung
ương khoá 9 vì đã
hành xử không dân
chủ với ông cũng như
những đảng viên khác
đã từng gửi các thư
tương tự.
Tuy nhiên chúng tôi
không thể trò chuyện
với ông. Vợ ông giải
thích: Nhà
tôi bịnh nặng lắm,
đang nằm nhà thương
anh ạ! Đúng ra
là ổng không còn
tỉnh. Anh hỏi... nó,
nó quá muộn rồi. Vấn
đề đó anh đừng hỏi
nữa vì những vấn đề
có liên quan đến ông
Cống, ông Xô này kia
nọ...
Nói chung là
người ta đã làm đền
thờ ông Đồng Văn
Cống này kia nọ
rồi... Nói chung,
tôi chỉ mong rằng
đừng có ai nói thêm
về những việc như
thế và cũng hổng
muốn nghe, cũng hổng
được rảnh tâm lắm.
Dù Bộ Chính trị và
Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá 9, đã
từng xác định đóng
lại vụ Tổng cục 2
song trong lá thư
thứ 7, ghi ngày 3
tháng 2 năm 2006,
gửi Hội nghị Trung
ương lần thứ 14, Ban
Chấp hành Trung ương
Đảng khoá 9, ông
Nguyễn Văn Thi vẫn
tiếp tục khẳng định:
Trách nhiệm đó trước
hết thuộc về người
đứng đầu là đồng chí
Tổng Bí thư,
đến
Bộ Chính trị
mà
tôi và nhiều Đảng
viên trong cả nước
cho rằng,
Trung ương Đảng khoá
9 đã tiếp tục duy
trì ảnh hưởng của
hai ông Đỗ Mười và
Lê Đức Anh vì nể
nang hoặc cố tình để
bảo vệ chức danh
do
nhờ
hai ông này mà có
được.
Không đưa ra giải
quyết các vụ án này
là che giấu khuyết
điểm của Trung ương
9 đã tiếp tục kéo
dài từ khoá 4 đến
nay để bảo vệ quyền
lợi cá nhân của một
số người, bất chấp
uy tín của toàn Đảng
và tiếp tục không
muốn đổi mới để cải
cách hệ thống chính
trị và quản lý Nhà
nước, không muốn
thay đổi nhân sự
lãnh đạo Trung ương
Đảng bằng những
người trong sạch, có
đức, có tài, có uy
tín trong toàn Đảng,
toàn quân và toàn
dân.
Hậu quả sẽ là Đảng
viên chân chính cả
nước sẽ tiếp tục đấu
tranh để chỉ rõ
trách nhiệm thuộc về
Ban Chấp hành khoá 9
mà người đứng đầu là
đồng chí Tổng Bí
thư.
Vẫn đòi làm rõ
Thực
tế cho thấy, điều
ông Nguyễn Văn Thi
khẳng định hoàn toàn
chính xác. Ngày 16
tháng 12 năm 2008,
Trung tá Vũ Minh
Trí, đang làm việc
tại Tổng cục 2 đã
gửi một lá thư
dài 13.000 chữ,
khẳng định, Tổng cục
2 hiện làm cho “quân
đội ta, Đảng ta, Nhà
nước ta đang gặp
phải hiểm họa vô
cùng to lớn ngay từ
bên trong, ngay ở
bên trên”, cơ
quan này hiện “khủng
hoảng trầm trọng và
toàn diện về lý
luận, tư duy nghiệp
vụ, phương châm,
phương pháp, thủ
đoạn, nề nếp, chế độ
công tác, tổ chức
lực lượng…”.
Theo
Trung tá Trí,
ngoài ông Nguyễn Chí
Vịnh, trung tướng,
Tổng cục trưởng,
từng bị Đại học Kỹ
thuật Quân sự đuổi
học khi còn là sinh
viên sĩ quan vì hạnh
kiểm kém, Tổng cục 2
đang là nơi dung
dưỡng nhiều người
thiếu kinh nghiệm,
kiến thức, tư cách,
thậm chí có tiền án,
ham danh, hám lợi,
song vẫn thăng tiến
rất nhanh cả về cấp
bậc lẫn chức vụ bởi
là thân nhân, thân
hữu, hoặc là thủ túc
của ông Nguyễn Chí
Vịnh.
Trong thư, Trung tá
Trí viết:
Chúng làm điệp báo
nhưng không tổ chức
xây dựng điệp viên,
tình báo viên mà
nghĩ ra khái niệm
“cán bộ mật”, “cán
bộ diện B” để đưa từ
bên ngoài quân đội
vào tổ chức điệp báo
hàng ngàn người mà
nếu xét theo nguyên
tắc, yêu cầu của
điệp báo chiến lược
thì hoàn toàn không
có khả năng điệp báo
(đặc biệt là về mặt
quân sự). Phần lớn
số này là người thân
quen của chúng.
Với các “cộng tác
viên mật” cũng có
tình trạng tương tự.
Điều kỳ lạ là trong
số “cán bộ mật”,
“cộng tác viên mật”
đó, có rất nhiều
người đang làm việc
trong các cơ quan
quân – dân – chính –
đảng của ta, một số
người còn là cán bộ
cấp cục –vụ – viện
trở lên. Trên khắp
thế giới, từ xưa tới
nay, chỉ có chúng
làm điệp báo chiến
lược mà không xây
dựng điệp viên, tình
báo viên.
Chúng dùng tổ chức
và hoạt động điệp
báo làm bình phong,
dùng kế hoạch điệp
báo làm công cụ chủ
yếu để bòn rút công
quỹ. Có thể khẳng
định trong 10 năm
trở lại đây, tất cả
các kế hoạch điệp
báo có mức kinh phí
đáng kể của Tổng cục
2 đều ít nhiều mắc
sai phạm về mặt kinh
tế, tài chính.
Nếu thanh tra, kiểm
tra, kiểm toán một
cách chặt chẽ, chắc
chắn sẽ phát hiện ra
nhiều vụ tham nhũng
lớn, nhiều tên tham
nhũng lớn.
Thư
của Trung tá Vũ Minh
Trí còn nhiều nội
dung đáng chú ý khác
và người “hâm” lại
vụ Tổng cục 2 –
Trung tá Vũ Minh Trí
nói gì với Đài Á
Châu Tự Do?
Mời quý vị xem bài
4.
4
Trong ba buổi phát thanh
trước, quý vị đã nghe
Trân Văn tường trình về
một số vấn đề liên quan
đến Tổng cục 2 mà nhiều
công thần của Đảng CSVN,
cũng như hàng chục tướng
lĩnh của cả Quân đội
Nhân dân Việt Nam lẫn
Công an Nhân dân Việt
Nam cùng nhận định là
“sai phạm siêu nghiêm
trọng”, cần xử lý triệt
để, song cuối cùng vẫn
bị lãnh đạo Đảng CSVN
làm ngơ.
Quý vị cũng
đã nghe một số nhân vật nhắc đến Trung tá Vũ Minh Trí, sĩ quan Tổng cục 2, tác
giả lá thư ghi ngày 16 tháng 12 năm 2008, được xem như tác nhân “hâm” lại một
scandal từng bị nhấn chìm. Vừa rồi, lá thư này đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp
nhắc đến để lập lại yêu cầu lãnh đạo Đảng và Nhà nước kiên quyết xử lý vụ Tổng
cục 2.
Bây giờ, mời quý vị
tiếp tục nghe Trân
Văn giới thiệu các
nội dung đáng quan
tâm trong thư của
Trung tá Vũ Minh Trí
và cuộc trao đổi
ngắn giữa Trân Văn
và trung tá này...
Hồi đầu tháng này,
các diễn đàn điện tử
công bố hai lá thư
do Đại tướng Võ
Nguyên Giáp viết
cách nay hai tháng.
Trong cả hai thư,
tướng Võ Nguyên Giáp
cùng cho biết lý do
viết thư là vì đã
nhận và đọc thư của
Trung tá Vũ Minh
Trí.
Lề lối lãnh đạo
Ở thư đầu, ghi ngày
8 tháng 6, gửi cho
hai cựu Tổng Bí thư
là ông Đỗ Mười và
ông Lê Khả Phiêu,
tướng Giáp cho rằng:
“Các anh phải
thống nhất độ quan
trọng của vấn đề và
góp phần cùng Bộ
Chính trị và Trung
ương giải quyết bằng
được”.
Sang thư sau, ghi
ngày 10 tháng 6, gửi
các thành viên trong
Bộ Chính trị và Ban
Bí thư, tướng Giáp
thẳng thắn nêu thắc
mắc về lối mà lãnh
đạo Đảng và chính
phủ hiện nay sử dụng
ông Nguyễn Chí Vịnh,
sau hàng loạt sai
phạm được xem là
“siêu nghiêm trọng”:
“Đồng chí Nông
Ðức Mạnh nói với tôi
là (NV: ông
Nguyễn Chí Vịnh)
không thể lên trung
tướng và chưa biết
đưa đi đâu để rèn
luyện nhưng thực tế
lại không làm như
vậy mà tiếp tục
thăng quân hàm và
giao trọng trách
Tổng cục trưởng,
hiện nay vừa đề bạt
là Thứ trưởng Bộ
Quốc Phòng làm cho
ai cũng ngạc nhiên,
lo lắng và nếu không
làm rõ thì chắc sẽ
còn lên nữa”.
Lũng đoạn, phá hoại
Trong bài trước
chúng tôi đã giới
thiệu một phần nội
dung thư tố cáo của
Trung tá Vũ Minh
Trí, đó là việc ông
Nguyễn Chí Vịnh thu
nạp thân nhân, thân
hữu, tập hợp thủ túc
để lũng đoạn Tổng
cục 2 và bòn rút
công quỹ. Tuy nhiên
ông Nguyễn Chí Vịnh
và các “chiến hữu”
của ông ta còn làm
những gì để sau khi
đọc thư của
Trung tá Trí,
tướng Giáp phải lên
tiếng cảnh báo:
“Tình
hình đang cực kỳ
nguy hiểm đối với
Quân đội, đối với
Đảng”?
Trong thư ghi ngày
16 tháng 12 năm
2008, Trung tá Vũ
Minh Trí kể rằng,
ông Nguyễn Chí Vịnh
và “phe lũ” đã “lừa
dối cấp trên”,
gửi nhiều
“tin
tình báo”
không khẳng định
được độ xác thực của
nội dung thông tin,
chiếm tỷ lệ lớn nhất
và gây tác hại
nhiều
nhất là “tin
về nội bộ”,
gây
nên sự nghi kỵ, rối
ren. Rất nhiều thông
tin là do thêm thắt,
ngụy tạo nhằm vu
cáo, bôi nhọ, lật
đổ.”
Cũng theo Trung tá
Trí, Tổng cục 2 đã thu
thập,
tạo dựng thông tin
về hàng ngàn cán bộ
quân – dân – chính
đảng, trong đó có
hàng trăm người từ
cấp ủy viên trung
ương trở lên,
không ít người đang
là viên chức cao cấp
của Đảng như ông
Trương Tấn Sang, Ủy
viên Thường trực Bộ
Chính trị, của chính
phủ như hai phó thủ
tướng Phạm Gia
Khiêm, Hoàng Trung
Hải, một số bộ
trưởng, thứ trưởng,
kể cả hai thứ trưởng
Bộ Công an là các
ông Nguyễn Văn
Hưởng, ông Nguyễn
Khánh Toàn. Rồi bí
thư các tỉnh, các
thành phố lớn như
ông Lê Thanh Hải
(TP.HCM), ông Nguyễn
Bá Thanh (thành phố
Đà Nẵng)...
Dù Tổng cục 2 đã tạo
ra vô số rắc rối
trong quá khứ vì
theo dõi, thu thập
rồi ngụy tạo thông
tin, thế nhưng tình
trạng này vẫn tái
diễn, Trung tá Trí
tiết lộ: “Gần
đây Nguyễn Chí
Vịnh giao cho một cơ
quan trực thuộc
Tổng
cục trưởng
Tổng cục 2
nhiệm vụ tổ chức thu
thập thông tin, lập
hồ sơ về nhiều cán
bộ cấp cao ngoài
Tổng cục 2
trong khi Tổng cục
2
không hề có chức
năng, nhiệm vụ bảo
vệ an ninh, bảo vệ
chính trị nội bộ,
thanh tra, kiểm tra
Đảng đối với các tổ
chức, cá nhân bên
ngoài Tổng cục
2”.
Cũng vì vậy, Trung
tá Trí nhận định:
Chính
Nguyễn Chí
Vịnh và phe lũ mới
phá hoại Tổng
cục 2
toàn diện nhất,
triệt để nhất. Trước
sự phá hoại ghê gớm
của chúng, trước
thực trạng bi đát
của Tổng cục
2
hiện nay, có người
nêu câu hỏi: Phải
chăng chúng
là “điệp viên ảnh
hưởng” của các thế
lực thù địch? Đánh
giá như vậy về
Nguyễn Chí
Vịnh và phe lũ có
quá mức không?...
Hoàn
toàn không nếu đã
đọc hàng loạt tin
tức, tài liệu mà
trong đó Tổng cục
2
nhận định:
Nguyễn Mạnh
Cầm, Phan Diễn, Trần
Bạch
Đằng, Võ Nguyên
Giáp, Nguyễn
Nam
Khánh, Trương
Tấn
Sang, Võ Viết
Thanh, Phan Văn
Trang, Nguyễn
Ngọc
Trừu,...
là có yếu tố địch.
Hoàn toàn không nếu
đánh giá thực trạng
Tổng cục 2
hiện nay một cách
khách quan, chặt chẽ
theo đúng yêu cầu
của việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ.
Thư của Trung tá Vũ
Minh Trí còn cung
cấp nhiều chi tiết
khác được xem là hết
sức nhạy cảm như sự
hỗ trợ đặc biệt mà
các ông Lê Đức Anh –
cựu Cố vấn Ban Chấp
hành Trung ương,
Nông Đức Mạnh – Tổng
Bí thư đương nhiệm,
Phạm Văn Trà – cựu
Bộ trưởng Quốc
Phòng, Nguyễn Huy
Hiệu – hiện là Thứ
trưởng Bộ Quốc
Phòng, Lê Văn Dũng –
hiện là Chủ nhiệm
Tổng cục Chính
trị,... dành riêng
cho ông Nguyễn Chí
Vịnh. Cũng vì vậy,
trong thư ghi ngày
10 tháng 6, tướng
Giáp yêu cầu Bộ
Chính trị và Ban
Chấp hành Trung ương
“cần chú ý bảo vệ
người tố cáo”.
Trách nhiệm, dũng cảm
Chúng tôi đã thực
hiện một cuộc phỏng
vấn ngắn với Trung
tá Vũ Minh Trí, tác
giả thư tố cáo ghi
ngày 16 tháng 12 năm
2008:
Trân Văn:
Thưa ông, tôi được
đọc thư của ông về
vụ Tổng cục 2 và sau
đó là thư của tướng
Giáp, tôi muốn hỏi
thăm ông về lá thư.
Thưa ông, theo ông,
với hiện tình của
Tổng cục 2 như hiện
nay, nó vi phạm
những nguyên tắc nào
trong tổ chức Quân
đội Nhân dân Việt
Nam ạ?
Trung tá Vũ Minh
Trí: Vâng! Thực
ra tất cả những thư
của tôi, tôi không
gửi đến những địa
chỉ bên ngoài ông ạ!
Cho nên là những nội
dung đấy, tôi cũng
chỉ trao đổi với
những cơ quan hay là
những cá nhân có
thẩm quyền thôi! Đấy
là một, thứ hai là
những chuyện này
cũng không tiện trao
đổi trên điện thoại,
cho nên là rất cám
ơn ông đã quan tâm
nhưng mà xin ông cho
kiếu được không ạ?
Trân Văn:
Dạ được ạ! Tôi hiểu!
Chỉ xin hỏi thêm ông
một vài câu.
Trung tá Vũ Minh
Trí: Dạ vâng,
ông cứ hỏi ạ...
Trân Văn:
Thưa ông, cho đến
nay, ông có gặp khó
khăn từ đồng đội của
mình không ạ? Nếu
tôi không lầm thì có
lẽ ông cũng làm việc
trong Tổng cục 2?
Trung tá Vũ Minh
Trí: Ông ạ! Nếu
đã gọi là đồng đội
thì thật sự không
gặp khó khăn gì. Nếu
là đồng đội thì sẽ
giúp đỡ mình thôi.
Nếu thật sự là đồng
đội của tôi đều rất
là ủng hộ tôi, đều
rất là giúp đỡ tôi,
ông ạ!
Trân Văn:
Dạ, trong thư của
tướng Giáp, tướng
Giáp có nhắc trực
tiếp đến ông và
tướng Giáp cho rằng,
việc mà ông đã làm
là việc làm của một
người có trách nhiệm
cao, dũng cảm. Tôi
nghĩ có lẽ là nội
tình hết sức phức
tạp thì tướng Giáp
mới đưa ra nhận định
như thế, thành ra
tôi muốn hỏi thăm
thêm những diễn biến
sau việc ông gửi lá
thư ghi ngày 16
tháng 12 năm 2008
đi...
Trung tá Vũ Minh
Trí: Thực ra để
làm đến nơi, đến
chốn việc nào, kể cả
việc nhỏ cũng đều là
phức tạp. Tôi cũng
chưa được đọc thư
của đại tướng Võ
Nguyên Giáp. Nếu quả
thực đại tướng đánh
giá như vậy thì tôi
thấy cũng hơi ngượng
bởi vì mình cũng
chưa được như vậy
đâu ông ạ!
Vì sao Tổng cục 2 có
thể “lợi
dụng tính chất hết
sức chuyên biệt của
tình báo để mưu cầu
lợi riêng,
bất chính”
như Trung tá Vũ Minh
Trí nhận xét trong
hàng chục năm mà vẫn
vô sự? Điều đó có
lợi cho ai? Chúng
tôi sẽ tổng hợp và
tường trình trong
bài cuối. Mời quý vị
đón nghe
5
Trong bốn bài của loạt
bài “Cơ quan Tình báo
Quân đội Việt Nam: Những
dấu hiệu của một đại
họa”, Trân Văn đã tóm
tắt và tường trình về
hàng loạt vấn đề được
các công thần, tướng
lĩnh, sĩ quan cao cấp
của Quân đội, Công an
Việt Nam xác định là
“sai phạm nghiêm trọng”,
xảy ra tại Tổng cục 2
như: lũng đoạn cơ quan
tình báo quân đội, bòn
rút công quỹ, theo dõi –
thu thập thông tin rồi
bịa đặt, vu cáo nhiều
viên chức lãnh đạo Đảng
và chính quyền, gây nghi
kỵ, chia rẽ trong nội
bộ,...
Đáng chú ý là sau
hàng chục năm, những
“sai phạm nghiêm
trọng” đó vẫn không
được xem xét, xử lý
thấu đáo nên tiếp
tục làm nội bộ Đảng,
nội bộ chính quyền,
nội bộ quân đội Việt
Nam bị phân hóa trầm
trọng. Cũng vì vậy,
đã có khá nhiều
người tự hỏi, có
những ai đã và đang
đứng phía sau vụ này
(?).
Trân Văn tiếp tục
tổng hợp và tường
trình bài thứ năm
của loạt bài này...
Ai đứng phía sau?
Tuy không đưa ra câu
trả lời cho câu hỏi,
ai đã và đang đứng
phía sau các “sai
phạm nghiêm trọng”
xảy ra ở Tổng cục 2
nhưng
Trung
tá Vũ Minh Trí,
người viết lá thư tố
cáo ghi ngày 16
tháng 12 năm 2008 đã
cung cấp một số chi
tiết, giúp người đọc
tự tìm câu trả lời.
Đó là:
Thời
gian qua, Tổng cục
2
bỏ qua tiêu chuẩn,
thu hút, tiếp nhận
con cháu rất nhiều
cán bộ cấp cao của
quân đội, Đảng, Nhà
nước như:
Lê Đức
Anh, Lê Văn
Dũng, Phùng Khắc
Đăng, Nguyễn
Huy
Hiệu, Vũ Tuyên
Hoàng, Bùi Văn
Huấn, Nông Đức
Mạnh, Phạm Hồng
Lợi, Cao Tiến
Phiếm, Nguyễn Hồng
Quân, Phạm Văn
Trà, Đỗ Quang
Trung... vào
đào tạo ở Học viện
Khoa
học Quân
sự, làm việc trong
Tổng cục 2
(việc mà thời trước
hầu như không có).
Cũng theo Trung tá
Vũ Minh Trí:
Không phải ngẫu
nhiên mà
trong
Tổng
cục 2
có nhiều ý kiến cho
rằng,
những năm qua,
Nguyễn Chí
Vịnh đã “qua mặt”,
đã “lừa” được hầu
hết lãnh đạo cấp cao
của quân
đội, Đảng, Nhà nước,
thậm chí “bỏ
túi” được
các vị Lê Đức
Anh, Nông Đức
Mạnh, Phạm Văn
Trà, Lê Văn
Dũng, Nguyễn
Huy
Hiệu, Phạm Văn
Long,...
Vai trò Lê Đức Anh
Nếu lật lại các tài
liệu liên quan đến
Tổng cục 2, có thể
thấy trong hầu hết
đơn, thư tố cáo, yêu
cầu giải quyết vụ
Tổng cục 2, hầu hết
công thần cũng như
tướng lĩnh cao cấp
của chế độ đều cùng
đề cập đến một
người, giữ vai trò
như cha đẻ Tổng cục
2, đồng thời là tổng
đạo diễn các vụ việc
được gọi là “siêu
nghiêm trọng”. Đó là
ông Lê Đức Anh.
Ở lá thư viết ngày
17 tháng 6 năm 2004,
Thượng tướng Nguyễn
Nam Khánh kể:
Trước Đại hội 7
(NV: Ban
Chấp hành Trung ương
Đảng Khóa 7 có nhiệm
kỳ từ 1991 đến
1996),
tâm trạng cán bộ, cả
phía Nam và phía Bắc
có nhiều lo lắng,
băn khoăn về nhân sự
cấp cao của Đảng,
nhiều cán bộ không
vừa lòng một số đồng
chí trong Bộ Chính
trị Khóa 6. Nhiều ý
kiến muốn thay đổi
một số Ủy
viên Bộ Chính trị.
Trong đó dư luận tập
trung không đồng
tình đồng chí Lê Đức
Anh...
và trong thực tế, vụ
Năm Châu - Sáu Sứ
bùng lên ở thời điểm
nhạy cảm đó, đã giúp
ông Lê Đức Anh tiếp
tục đảm nhiệm cương
vị Ủy viên Bộ Chính
trị.
Tướng Nguyễn Nam
Khánh kể tiếp:
Trong khóa 7, đồng
chí Lê Đức Anh được
bầu vào Bộ Chính trị
và sau đó được bầu
làm Chủ tịch nước,
phụ trách cả
an
ninh, quốc
phòng và đối
ngoại...
Được sự chỉ đạo của
đồng chí Lê Đức Anh,
Pháp lệnh tình báo
và Nghị
định 96/CP đã được
soạn thảo và chuyển
qua Quốc
hội và Chính
phủ...
Lợi dụng Nghị định
96/CP, Tổng cục 2 đã
có sự lộng quyền
nghiêm trọng, sự
thao túng nghiêm
trọng, phá hoại dân
chủ và phá hoại đoàn
kết nội
bộ, gây chia rẽ và
bè phái rất nghiêm
trọng trong Đảng.
Tổng cục 2 muốn vu
khống ai thì vu
khống, muốn trừng
trị ai thì bày
chuyện trừng trị,
muốn gài người vào
cơ quan nào thì gài,
tổ chức kinh doanh
tràn lan, lạm dụng
các hoạt động gọi là
“tình
báo”
để tiêu tiền, thậm
chí tạo ra “cơ
sở đặc tình”
không có thật để
tiêu tiền.
Man trá lý lịch
Tiểu sử cá nhân của
ông Lê Đức Anh do
Đảng và chính quyền
Việt Nam công bố,
cho biết, ông Lê Đức
Anh là Ủy viên Bộ
Chính trị trong bốn
khóa liên tục, từ
khóa 5 đến khóa 8,
kéo dài từ 1982 đến
2001. Ông Lê Đức Anh
từng là Tổng Tham
mưu trưởng, Bộ
trưởng Quốc Phòng,
Chủ tịch Nhà nước.
Năm 2008, ông được
tặng huy hiêu “70
năm tuổi Đảng”.
Tuy nhiên theo một
thư tố cáo ghi ngày
3 tháng 2 năm 2005
của các ông Phạm Văn
Xô (Hai Xô - một
trong những lãnh đạo
đầu tiên của Đảng
Cộng sản Đông Dương,
cựu Phó Ban Tổ chức
Trung ương), ông
Đồng Văn Cống (Bảy
Cống - cựu Phó Tổng
thanh tra Quân đội),
ông Nguyễn Văn Thi
(Năm Thi - cựu Chủ
nhiệm Hậu cần Bộ Tư
lệnh Miền) – những
người từng là cấp
trên của ông Lê Đức
Anh thì ông Lê Đức
Anh đã man khai cả
lý lịch cá nhân, lẫn
man khai tư cách
Đảng viên:
Lê
Đức Anh không phải
là công nhân cao su
như tự khai trong lý
lịch mà là người
giúp việc thân cận
cho chủ đồn điền De
Lalant, một sĩ quan
phòng nhì của
Pháp...
Cũng theo các ông
này, ông Lê Đức Anh
chưa bao giờ được
kết nạp vào Đảng
CSVN và họ cũng như
một số cán bộ cách
mạng lão thành khác
ở miền Nam, đã lên
tiếng tố cáo sự man
trá này từ năm 1982.
Trong thư đã dẫn,
các ông Phạm Văn Xô,
Đồng Văn Cống,
Nguyễn Văn Thi nhận
định: Theo chúng
tôi thì những vụ
việc nghiêm trọng,
xảy ra trong hơn hai
chục năm qua, từ Vụ
Xiêm Riệp (1983),
Sáu Sứ (1991), vụ
nâng Cục 2 lên thành
Tổng cục 2 với quyền
hạn siêu Đảng, siêu
Nhà nước, được hợp
pháp hóa bằng Pháp
lệnh tình báo của
Quốc hội và Nghị
định 96/CP, vụ T4
(1997-1999), đến vụ
nói xấu, vu khống
nhằm lật đổ Tổng Bí
thư Lê Khả Phiêu
trước đại hội 9...
đều có bàn tay của
nhân vật từng hoạt
động cách mạng và
kháng chiến ở Nam Bộ
mà chúng tôi đều
biết rõ. Đó là
nguyên cai đồn điền
cao su, nguyên Chủ
tịch nước, nguyên Cố
vấn Lê Đức Anh.
Tại
một tài liệu khác là
thư của ông Nguyễn
Đức Tâm - cựu Trưởng
Ban Tổ chức Trung
ương Đảng, ghi ngày
3 tháng 1 năm 2001 –
với tư cách là một
trong những người đã
từng nhận các đơn
thư tố cáo - ông Tâm
phân trần:
Về thư đồng chí
Năm Thi tố cáo đồng
chí Lê Ðức Anh tôi
đã trao đổi với anh
Lê Ðức Thọ, anh Thọ
có ý kiến đại thể
như sau: Ðây chỉ là
vấn đề cần quan tâm
nhưng chưa đủ cơ sở
để kết luận, sau này
sẽ tiếp tục điều tra
(lúc này cũng đang
rối lên về nhân sự
chủ chốt của Ðại hội
6). Sau Ðại hội 6,
tôi cũng đặt ra vấn
đề với anh Nguyễn
Văn Linh nhưng anh
Linh không giao
trách nhiệm để tổ
chức điều tra (lý do
có thể rất phức tạp,
tôi không dám viết
ra đây, chỉ xin trực
tiếp báo cáo với Bộ
Chính trị hoặc Ủy
Ban Kiểm tra Trung
ương.
Tên
ông Lê Đức Anh không
chỉ xuất hiện trong
các thư, đơn tố cáo
đòi xử lý triệt để
vụ Tổng cục 2. Việc
đối chiếu những tài
liệu khác có thể góp
phần lý giải câu
hỏi, vì sao các sai
phạm của Tổng cục 2,
tuy kéo dài hơn một
thập niên nhưng
không thể xử lý. Mời
quý vị đón nghe bài
cuối.
6
Trong năm bài của loạt
bài “Cơ quan Tình báo
quân đội Việt Nam và
những dấu hiệu của một
đại họa”, quý vị đã nghe
nhiều ý kiến của các
công thần cũng như tướng
lĩnh, sĩ quan cao cấp
trong Đảng CSVN, trong
chính quyền và trong
quân đội cùng cảnh báo
rằng, Tổng cục 2 đang
làm cho tình hình trở
thành cực kỳ nguy hiểm
đối với quân đội, đối
với Đảng.
Sai phạm nghiêm trọng của Tổng cục 2
Phải chăng sự nguy
hiểm chỉ đe dọa quân
đội và Đảng? Mời quý
vị nghe Trân Văn
tường trình bài cuối
cùng và chúng tôi
mong nhận thêm ý
kiến phản hồi từ quý
thính giả sau loạt
bài này...
Trong nhiều thư, đơn
tố cáo, yêu cầu giải
quyết những sai phạm
nghiêm trọng tại
Tổng cục 2 suốt từ
thập niên 1990 đến
nay, tên ông Lê Đức
Anh được lập đi, lập
lại khá nhiều lần.
Đáng chú ý là tên
của ông Lê Đức Anh
không chỉ xuất hiện
trong những tài liệu
liên quan đến Tổng
cục 2.
Cũng vì vậy, việc
đối chiếu một số tài
liệu khác có thể góp
phần lý giải câu
hỏi, vì sao các sai
phạm của Tổng cục 2,
tuy kéo dài hơn một
thập niên, gây bất
bình sâu rộng nơi
cán bộ, đảng viên cả
trong, lẫn ngoài
quân đội nhưng vẫn
không thể xử lý đến
nơi, đến chốn.
Ở hồi ký “Hồi ức và
suy nghĩ” của ông
Trần Quang Cơ, cựu
Thứ trưởng Ngoại
giao, ông Trần Quang
Cơ đã từng kể như
thế này về ông Lê
Đức Anh, trong phần
tường thuật về “Đại
hội 7 và cái giá
phải trả cho việc
bình thường hoá quan
hệ với Trung Quốc”:
Sau Ðại hội 7, mọi
vấn đề quan trọng về
đối ngoại của Nhà
nước đều do Hồng Hà,
Bí thư Trung ương,
phụ trách đối ngoại,
dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Lê Ðức Anh
và tất nhiên được sự
tán thưởng của Tổng
Bí thu Ðỗ Mười,
quyết định. Những
phần công việc vốn
do Bộ Ngoại giao đảm
nhiệm nay đều do
Hồng Hà và Ban Ðối
ngoại chủ trì. Một
thí dụ điển hình về
việc vì ý đồ cá nhân
họ sẵn sàng bỏ qua
danh dự và quốc thể:
Ngày 5 tháng 8 năm
1991, tại cuộc họp
Hội đồng Bộ trưởng,
Hồng Hà tuyên bố:
“Từ nay trong quan
hệ với Trung Quốc
các ngành cứ tập
trung ở chỗ anh
Trương Ðức Duy (Ðại
sứ Trung Quốc),
không cần qua sứ
quán Việt Nam ở Bắc
Kinh”. Lê Ðức Anh
cho biết khi ở Trung
Quốc, Phó ban Ðối
ngoại Trung Quốc Chu
Lương có đề nghị:
“Vì lý do kỹ thuật,
quan hệ giữa hai
Ðảng xin làm qua
Trương Ðức Duy”.
Hoặc thế này: Ðể dọn
đường cho cuộc gặp
cấp thứ trưởng ở Bắc
Kinh tháng 8 năm
1991, tối 31 tháng 7
Hồng Hà đảm bảo với
Từ Ðôn Tín: "Ðồng
chí Lê Ðức Anh và
tôi sẽ làm việc trực
tiếp với thứ trưởng
Nguyễn Dy Niên
(người được chỉ định
đi đàm phán với
Trung Quốc chỉ vì
chưa có “tiền sự”
với Trung Quốc)
trước khi đồng chí
ấy đi Trung Quốc.
Chúng tôi phải báo
cáo với Bộ Chính trị
để có ý kiến chỉ đạo
không những về nội
dung mà cả về tinh
thần và thái độ làm
việc.
Tinh thần của chúng
tôi là phấn đấu làm
cho cuộc gặp thành
công”. Sau khi đã
cam kết từ nay không
nói đến vấn đề diệt
chủng nữa, Hồng Hà
hỏi Từ: “Tôi muốn
hỏi đồng chí ngoài
vấn đề diệt chủng,
còn hai vấn đề gai
góc là vấn đề quân
đội các bên
Campuchia và vai trò
Liên Hiệp Quốc thì
phương hướng giải
quyết nên thế nào,
để chúng tôi có thể
góp phần làm cho
cuộc gặp thứ trưởng
Việt - Trung ở Bắc
Kinh sắp tới đạt kết
quả tốt”.
Một thái độ ươn hèn, yếu đuối
Ông Trần Quang Cơ
than: Xin ý kiến đối
phương và hướng giải
quyết vấn đề để đàm
phán trước khi đàm
phán, thật là chuyện
có một không hai
trong lịch sử đối
ngoại!...
Trở lại với nội dung
chính của loạt bài
này, liệu lần này,
vụ Tổng cục 2 và
những “sai phạm
nghiêm trọng” ở cơ
quan này sẽ được
giải quyết dứt điểm?
Ông Bùi Tín nhận
định: Tất cả
mọi vấn đề quy chiếu
vào mối quan hệ với
Trung Quốc, trong đó
nổi bật là thái độ
yếu đuối, có thể nói
là ươn hèn và phụ
thuộc.
Ngay từ năm 1991,
ông Bộ trưởng Ngoại
giao Nguyễn Cơ Thạch
cũng là Ủy viên Bộ
Chính trị đã phải
kêu lên là chúng ta
lại bước vào thời kỳ
Bắc thuộc mới. Chính
do những nhận định
như thế của Nguyễn
Cơ Thạch mà Bắc Kinh
yêu cầu Bộ Chính trị
phải gạt ngay ông
Nguyễn Cơ Thạch ra.
Đúng là sau đó,
Nguyễn Cơ Thạch bị
mất chức.
Tôi nghĩ đấy là một
biểu hiện rất rõ, từ
vấn đề bauxite, vấn
đề Tổng cục 2, vấn
đề mất đất, mất
biển, vấn đề tàn sát
ngư dân đều quy
chiếu vào mối quan
hệ giữa Đảng Cộng
sản Việt Nam và Đảng
Cộng sản Trung Quốc.
Thái độ của Bộ Chính
trị hiện nay là một
thái độ ươn hèn, yếu
đuối. Bởi vì họ nghĩ
rằng, muốn tồn tại
thì phải dựa vào
Trung Quốc, bởi vì
họ cho rằng Việt Nam
và Trung Quốc cùng
theo chủ nghĩa Mác –
Lê Nin, cùng chung
chế độ độc đảng, họ
nghĩ rằng Trung Quốc
lớn như thế thì khó
mà có thể chìm, do
đó mà bám lấy cái
phao này.
Tôi nghĩ là họ đã
tính lầm bởi tinh
thần tự chủ của dân
tộc Việt Nam mạnh
lắm. Tôi nghĩ là
nhân dân mình đã
thức tỉnh. Do đó
trong tình hình mới,
tôi nghĩ là họ khó
có thể bịt được vụ
Tổng cục 2.
Sư lớn mạnh của các đoàn “tình báo hành động”
Đó là hy vọng của
một số người, còn
đây là thực tế được
một người trong
cuộc, Trung tá Vũ
Minh Trí tường thuật
tại thư ghi ngày 16
tháng 12 năm 2008:
Nhiều người ở Tổng
cục 2 rất lo ngại
khi thấy giữa thời
bình, khả năng xảy
ra chiến tranh đã
được Đảng nhận định
qua mấy kỳ đại hội
là không có mà
Nguyễn Chí Vịnh và
phe lũ lại xây dựng
lực lượng trinh sát
bộ đội nằm trong đội
hình Cục quân báo
rồi Cục tình báo vốn
chỉ ở cấp tiểu đoàn
thời chống Pháp,
chống Mỹ, cấp trung
đoàn thời chiến
tranh hai đầu biên
giới phía Bắc và
phía Tây Nam lên
thành 3 đoàn “tình
báo hành động” là:
K3,74,94.
Cả ba đều có quy mô
cấp lữ đoàn (đoàn
trưởng được thăng
quân hàm tới đại
tá), đều do tay chân
thân tín nhất của
Nguyễn Chí Vịnh nắm,
đều đóng ở các đô
thị lớn bậc nhất của
đất nước, đều triển
khai nhiều hoạt động
điệp báo và đều được
trang bị các vũ khí,
trang thiết bị đặc
chủng, trong đó có
mấy chục xe thiết
giáp.
Họ tự hỏi “tình báo
hành động” thực chất
là gì? Tại sao các
đoàn “tình báo hành
động” đó lại có quy
mô lớn như vậy trong
khi quy mô lực lượng
trinh sát bộ đội của
các quân khu, quân
đoàn, quân chủng,
binh chủng chỉ ở cấp
tiểu đoàn? Chúng
nhằm vào đối tượng
tác chiến nào? Rõ
ràng lo ngại của họ
không phải là vô cớ.
Trong thư ghi ngày
10 tháng 6 năm nay,
gửi Bộ Chính trị,
Ban Chấp hành Trung
ương, tướng Giáp yêu
cầu xem xét vụ Tổng
cục 2 và “có chủ
trương giải quyết
những sai trái một
cách kiên quyết,
triệt để, đúng
nguyên tắc” không
chỉ “để bảo vệ
quân đội, bảo vệ
Đảng” mà còn nhằm
“bảo vệ độc lập tự
chủ của đất nước”.
“Bảo vệ độc lập tự
chủ của đất nước”
cũng là ý đã được
ông nhắc tới khi yêu
cầu xem xét những
chủ trương liên quan
đến bauxite cách nay
vài tháng.
Nguồn:
No comments:
Post a Comment