(TNO) Trận hải chiến
kết thúc vào trưa 19.1.1974. Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc. Việt Nam
Cộng Hòa lập tức lên kế hoạch sử dụng máy bay để tái chiếm quần đảo
thuộc chủ quyền của mình.
Không quân Việt Nam Cộng Hòa lên kế hoạch giành lại Hoàng Sa 1
Không quân Việt Nam Cộng Hòa lên kế hoạch giành lại Hoàng Sa 1
Đại
tá Nguyễn Thành Trung, Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân, là phi
công được “Việt Cộng” cài vào Không quân Việt Nam Cộng Hòa thời chiến
tranh. Lâu nay người ta thường biết đến ông qua các sự kiện như vụ ném
bom Dinh Độc Lập, cuộc không kích phi trường Tân Sơn Nhất vào giai đoạn
sắp kết thúc chiến tranh và công lao trong quá trình xây dựng lực lượng
không quân cũng như hàng không dân dụng của Việt Nam thời bình. Nhưng
bên cạnh những câu chuyện đã trở nên nổi tiếng nói trên, ông còn có một
bí mật để kể.
Trong căn nhà yên tĩnh ở quận Gò Vấp, TP.HCM, phi công
huyền thoại Nguyễn Thành Trung kể lại cho chúng tôi câu chuyện mà ông
giấu kín suốt 40 năm qua, từ sau trận Hải chiến Hoàng Sa bi tráng.
Với phi công phe XHCN thời đó, bay biển là một vấn đề, nên tôi đánh giá phi công Trung Quốc năm 1974 không có gì, không thể bay ra biển, không dám chiến đấu trên biển, trong khi ở miền Nam, chúng tôi bay trong đất liền, bay ra biển giống nhau, bay ra Hoàng Sa, Trường Sa là bình thường
Sẵn sàng không kích
“Quay lại thời điểm năm 1974, Không quân Trung Quốc chỉ có MiG 21 do Liên Xô sản xuất, là loại máy bay phòng vệ, chứ không phải tấn công. Phòng vệ là đánh trên đất mình, ai vào thì mình đánh nên tầm bay rất ngắn. Phi công của mình (miền Bắc) ngày xưa cũng vậy, các anh không bay xa, bay lên đánh được hay không được khi hết thời gian là phải về, nếu bay quần nữa là không có dầu. MiG 21 rất hạn chế về dầu. Đó là tôi chưa nói đến phi công, phi công Trung Quốc lúc đó không thể bay biển được, phi công của mình ngoài Bắc cũng thế, mấy ảnh ít bay ra biển lắm. Bay ra biển là cả một vấn đề, môi trường bay biển khác hẳn môi trường bay đất liền. Giữa trời và biển rất lẫn lộn, phi công rất dễ thao tác nhầm. Như anh (Bùi Thanh) Liêm, phi công vũ trụ, bay ra biển đâm xuống biển. Anh (Hoàng Mai) Vượng cùng biên đội với tôi đánh sân bay Tân Sơn Nhất, đánh xong bay ra biển nhào xuống biển liền. Với phi công phe XHCN thời đó, bay biển là một vấn đề, nên tôi đánh giá phi công Trung Quốc năm 1974 không có gì, không thể bay ra biển, không dám chiến đấu trên biển, trong khi ở miền Nam, chúng tôi bay trong đất liền, bay ra biển giống nhau, bay ra Hoàng Sa, Trường Sa là bình thường”, Đại tá Nguyễn Thành Trung dẫn dắt chúng tôi trở lại quá khứ, trước khi kể về kế hoạch của Việt Nam Cộng Hòa sử dụng máy bay F-5 không kích tái chiếm Hoàng Sa.
Với phi công phe XHCN thời đó, bay biển là một vấn đề, nên tôi đánh giá phi công Trung Quốc năm 1974 không có gì, không thể bay ra biển, không dám chiến đấu trên biển, trong khi ở miền Nam, chúng tôi bay trong đất liền, bay ra biển giống nhau, bay ra Hoàng Sa, Trường Sa là bình thường
Sẵn sàng không kích
“Quay lại thời điểm năm 1974, Không quân Trung Quốc chỉ có MiG 21 do Liên Xô sản xuất, là loại máy bay phòng vệ, chứ không phải tấn công. Phòng vệ là đánh trên đất mình, ai vào thì mình đánh nên tầm bay rất ngắn. Phi công của mình (miền Bắc) ngày xưa cũng vậy, các anh không bay xa, bay lên đánh được hay không được khi hết thời gian là phải về, nếu bay quần nữa là không có dầu. MiG 21 rất hạn chế về dầu. Đó là tôi chưa nói đến phi công, phi công Trung Quốc lúc đó không thể bay biển được, phi công của mình ngoài Bắc cũng thế, mấy ảnh ít bay ra biển lắm. Bay ra biển là cả một vấn đề, môi trường bay biển khác hẳn môi trường bay đất liền. Giữa trời và biển rất lẫn lộn, phi công rất dễ thao tác nhầm. Như anh (Bùi Thanh) Liêm, phi công vũ trụ, bay ra biển đâm xuống biển. Anh (Hoàng Mai) Vượng cùng biên đội với tôi đánh sân bay Tân Sơn Nhất, đánh xong bay ra biển nhào xuống biển liền. Với phi công phe XHCN thời đó, bay biển là một vấn đề, nên tôi đánh giá phi công Trung Quốc năm 1974 không có gì, không thể bay ra biển, không dám chiến đấu trên biển, trong khi ở miền Nam, chúng tôi bay trong đất liền, bay ra biển giống nhau, bay ra Hoàng Sa, Trường Sa là bình thường”, Đại tá Nguyễn Thành Trung dẫn dắt chúng tôi trở lại quá khứ, trước khi kể về kế hoạch của Việt Nam Cộng Hòa sử dụng máy bay F-5 không kích tái chiếm Hoàng Sa.
Sau khi bị mất
đảo, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phản ứng như thế nào? Theo ông Nguyễn
Thành Trung, Mỹ chỉ nói kiểu hàng hai, vì lúc đó Mỹ và Trung Quốc đã
thông đồng rồi. “Còn ông Thiệu thì tức và quyết tâm làm một cái gì đấy
để lấy tiếng vang. Lúc bấy giờ, theo tôi làm thế là hoàn toàn đúng. Mày
cướp nước tao thì tao phải đánh mày một trận, còn giữ được hay không
tính sau. Tao phải đánh mày một trận để cho mày bỏ tính hung hăng đi”,
phi công Nguyễn Thành Trung diễn giải.
Không quân ViÇt Nam CÙng Hòa lên k¿ ho¡ch giành l¡i Hoàng Sa 2
Phi công Nguyễn Thành Trung giới thiệu về hệ thống vũ khí của chiến đấu cơ F-5 - Ảnh: Tấn Tú
Vào thời điểm xảy ra Hải chiến Hoàng Sa, ông Trung là phi công của Không đoàn 63 chiến thuật đóng ở Biên Hòa. Có 5 phi đoàn F-5 ở Biên Hòa, 1 phi đoàn F-5 ở Đà Nẵng. Tổng thống Thiệu liền ra lệnh điều 4 phi đoàn F-5 từ Biên Hòa ra Đà Nẵng, chỉ giữ lại 1 phi đoàn ở Biên Hòa. Theo biên chế thời đó, mỗi phi đoàn 24 chiếc; 5 phi đoàn có khoảng 120 chiếc và 150 phi công.
Cất cánh từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa, tụi tôi thừa sức đánh với họ trong 20 phút, thừa dầu bay về Đà Nẵng. Cự ly từ Hải Nam ra Hoàng Sa xa hơn Đà Nẵng ra Hoàng Sa chút xíu, nhưng không quân Trung Quốc chỉ có MiG-21, ra tới Hoàng Sa thì không còn dầu để quay về. Thế nên, về không quân thì tụi tôi chiếm ưu thế, Trung Quốc không có gì
“Khi ra đến Đà Nẵng, chúng tôi nhận được lệnh chuẩn bị đánh để lấy lại Hoàng Sa và trước nhất muốn đánh là phải đánh cái hạm đội của Trung Quốc”, ông Trung nhớ lại. Trong kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa bằng không quân, đại tá Nguyễn Văn Sỹ làm Không đoàn trưởng, cấp trên chỉ huy là chuẩn tướng Nguyễn Văn Tường, còn gọi là Tường “Mực”, da đen thui, là Phó sư trưởng Sư đoàn 3. Ở cấp phi đoàn, phi đoàn 536 có trung tá Đàm Thượng Vũ, phi đoàn 520 có trung tá Nguyễn Văn Dũng, phi đoàn 540 có trung tá Nguyễn Văn Thành, phi đoàn 542 có trung tá Nguyễn Ngọc Quang, phi đoàn 538 ở Đà Nẵng thì có trung tá Nguyễn Văn Giàu làm chỉ huy.
Phi công Nguyễn Thành Trung giới thiệu về hệ thống vũ khí của chiến đấu cơ F-5 - Ảnh: Tấn Tú
Vào thời điểm xảy ra Hải chiến Hoàng Sa, ông Trung là phi công của Không đoàn 63 chiến thuật đóng ở Biên Hòa. Có 5 phi đoàn F-5 ở Biên Hòa, 1 phi đoàn F-5 ở Đà Nẵng. Tổng thống Thiệu liền ra lệnh điều 4 phi đoàn F-5 từ Biên Hòa ra Đà Nẵng, chỉ giữ lại 1 phi đoàn ở Biên Hòa. Theo biên chế thời đó, mỗi phi đoàn 24 chiếc; 5 phi đoàn có khoảng 120 chiếc và 150 phi công.
Cất cánh từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa, tụi tôi thừa sức đánh với họ trong 20 phút, thừa dầu bay về Đà Nẵng. Cự ly từ Hải Nam ra Hoàng Sa xa hơn Đà Nẵng ra Hoàng Sa chút xíu, nhưng không quân Trung Quốc chỉ có MiG-21, ra tới Hoàng Sa thì không còn dầu để quay về. Thế nên, về không quân thì tụi tôi chiếm ưu thế, Trung Quốc không có gì
“Khi ra đến Đà Nẵng, chúng tôi nhận được lệnh chuẩn bị đánh để lấy lại Hoàng Sa và trước nhất muốn đánh là phải đánh cái hạm đội của Trung Quốc”, ông Trung nhớ lại. Trong kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa bằng không quân, đại tá Nguyễn Văn Sỹ làm Không đoàn trưởng, cấp trên chỉ huy là chuẩn tướng Nguyễn Văn Tường, còn gọi là Tường “Mực”, da đen thui, là Phó sư trưởng Sư đoàn 3. Ở cấp phi đoàn, phi đoàn 536 có trung tá Đàm Thượng Vũ, phi đoàn 520 có trung tá Nguyễn Văn Dũng, phi đoàn 540 có trung tá Nguyễn Văn Thành, phi đoàn 542 có trung tá Nguyễn Ngọc Quang, phi đoàn 538 ở Đà Nẵng thì có trung tá Nguyễn Văn Giàu làm chỉ huy.
Theo
phương án họp bàn ở Đà Nẵng, trước hết máy bay sẽ tấn công tàu Trung
Quốc vì “họ đi ra Hoàng Sa của mình là bằng tàu thôi, mình mà diệt hạm
đội này là họ cụt ngòi”. Máy bay sử dụng cho chiến dịch là loại F-5 và
F-5E, loại có bình xăng phụ.
“Cất cánh từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa, tụi
tôi thừa sức đánh với họ trong 20 phút, thừa dầu bay về Đà Nẵng. Cự ly
từ Hải Nam ra Hoàng Sa xa hơn Đà Nẵng ra Hoàng Sa chút xíu, nhưng không
quân Trung Quốc chỉ có MiG-21, ra tới Hoàng Sa thì không còn dầu để quay
về. Thế nên, về không quân thì tụi tôi chiếm ưu thế, Trung Quốc không
có gì. MiG-21 không dám bén mảng ra Hoàng Sa, mà ra đến đấy tụi tôi đánh
cũng rớt, hoặc không có dầu về. F-5 vừa mang bom, tên lửa, vừa có súng,
hai bên 2 cây 20 li, mỗi bên cánh 2 quả bom và 4 quả ở giữa, hai bên
đầu cánh là 2 tên lửa đối không Sidewinder. Hỏa lực của F-5 hồi đấy là
quá mạnh. Về tương quan lực lượng là chúng tôi chiếm ưu thế, nếu đánh
Hoàng Sa thì tôi xem như một cuộc dạo chơi, không có gì phải lo cả”, đại
tá Nguyễn Thành Trung kể.
Sau khi các phi đội từ Biên Hòa bay tới Đà
Nẵng, máy bay do thám RF-5A được điều ra Hoàng Sa để chụp ảnh. Đây là
loại máy bay có thời gian hoạt động trên không rất lâu. RF-5A chụp ảnh
chi tiết hết địa hình các đảo, mặt biển trong bán kính 100 km, ghi lại
hình ảnh các chiến hạm Trung Quốc. Hình ảnh thu được cho thấy Trung Quốc
tập trung tàu quanh Hoàng Sa khá nhiều. “Chúng tôi cho phóng to hình
ảnh ra và được chỉ huy đơn vị tập trung hết 120 phi công lại nghe thuyết
trình. Chúng tôi đếm từng chiếc tàu một, thậm chí số hiệu tàu chúng tôi
cũng đọc được. Không có tàu lớn, tàu trung bình thôi, tàu nhỏ thì
nhiều”.
Các phi đoàn phải làm sạch, nhấn hết xuống biển và tôi đảm bảo là 100% sau một ngày tất cả 40 chiếc tàu đó không còn chiếc nào sống sót. Máy bay mà đánh tàu thì quá dễ, tàu nó chạy chậm, tốc độ khoảng 20 hải lý/giờ thì không có cách nào trốn được. Nói thiệt là xe tăng còn chạy không được huống gì tàu, xe tăng mà chạy là tụi tui đánh lật ngửa hết
“Nhấn hết xuống biển”
Các phi công đếm được khoảng 40 chiếc tàu, xác định được vị trí và hướng di chuyển của số tàu đó. Sau khi nắm được tình hình thì đại tá Sỹ chia tấm bản đồ thành 4 miếng và mỗi miếng được giao cho một phi đoàn, trách nhiệm của mỗi phi đoàn là làm sạch mảnh bản đồ được chia.
Các phi đoàn phải làm sạch, nhấn hết xuống biển và tôi đảm bảo là 100% sau một ngày tất cả 40 chiếc tàu đó không còn chiếc nào sống sót. Máy bay mà đánh tàu thì quá dễ, tàu nó chạy chậm, tốc độ khoảng 20 hải lý/giờ thì không có cách nào trốn được. Nói thiệt là xe tăng còn chạy không được huống gì tàu, xe tăng mà chạy là tụi tui đánh lật ngửa hết
“Nhấn hết xuống biển”
Các phi công đếm được khoảng 40 chiếc tàu, xác định được vị trí và hướng di chuyển của số tàu đó. Sau khi nắm được tình hình thì đại tá Sỹ chia tấm bản đồ thành 4 miếng và mỗi miếng được giao cho một phi đoàn, trách nhiệm của mỗi phi đoàn là làm sạch mảnh bản đồ được chia.
“Ví như ô của tôi có 15
chiếc, ô của anh có 20 chiếc thì nhiệm vụ của anh và của tôi là trong
một ngày phải cho những chiếc tàu đó chìm hết xuống biển, không có chiếc
nào nổi được nữa”, ông Trung giải thích. “Các phi đoàn phải làm sạch,
nhấn hết xuống biển và tôi đảm bảo là 100% sau một ngày tất cả 40 chiếc
tàu đó không còn chiếc nào sống sót. Máy bay mà đánh tàu thì quá dễ, tàu
nó chạy chậm, tốc độ khoảng 20 hải lý/giờ thì không có cách nào trốn
được. Nói thiệt là xe tăng còn chạy không được huống gì tàu, xe tăng mà
chạy là tụi tôi đánh lật ngửa hết, cho nên tàu trên biển mà đánh là
trong tầm tay”.
Theo trí nhớ của ông Trung, các phi công lúc bấy giờ cho rằng nhiệm vụ khá dễ, chỉ trong vòng 12 giờ là tàu Trung Quốc sẽ chìm hết. “Mà việc đó là chắc chắn đến 100%, không có trận nào mà chắc chắn như thế”, người phi công kỳ cựu lặp lại.
Theo trí nhớ của ông Trung, các phi công lúc bấy giờ cho rằng nhiệm vụ khá dễ, chỉ trong vòng 12 giờ là tàu Trung Quốc sẽ chìm hết. “Mà việc đó là chắc chắn đến 100%, không có trận nào mà chắc chắn như thế”, người phi công kỳ cựu lặp lại.
Lúc bấy giờ, quyết tâm
của Không quân Việt Nam Cộng Hòa, từ lãnh đạo đến chỉ huy, phi công là
rất cao. “Khí thế dữ lắm, các anh có sống ở thời điểm đó mới biết người
Việt Nam chúng ta yêu nước như thế nào”.
Lúc bấy giờ, ông Trung là
một sĩ quan cấp úy. “Mấy ông cấp tá, mấy ông lãnh đạo, chỉ huy phát biểu
trong cuộc họp rằng: Đánh với Việt Cộng là chỉ đánh chơi thôi, không có
sướng. Đánh với Trung Cộng mới là đánh cho nên tôi nói thật với các
ông, đánh trận này, tụi tôi đi đánh trước. Cấp đại tá, trung tá, thiếu
tá đánh trước, đánh cho họ biết người Việt Nam là như thế nào, đánh một
trận cho họ từ bỏ ý định, bớt hung hăng, sau khi chúng tôi chết hết rồi
mới đến cấp úy các ông đi đánh”, ông kể lại và nói thêm: “Nói thế để
biết người Việt Nam yêu nước như thế nào, vì đánh với Trung Quốc mới là
đánh giặc xâm lăng, cho nên mấy ổng bảo chừng nào tụi tôi chết hết mới
đến các anh”.
Không quân ViÇt Nam CÙng Hòa lên k¿ ho¡ch giành l¡i Hoàng Sa 3
Không quân ViÇt Nam CÙng Hòa lên k¿ ho¡ch giành l¡i Hoàng Sa 4
Chiến đấu cơ F-5 của Không quân Việt Nam Cộng Hòa - Ảnh: Tư liệu
“Mấy ông cấp tá, mấy ông lãnh đạo, chỉ huy phát biểu trong cuộc họp rằng: Đánh với Việt Cộng là chỉ đánh chơi thôi, không có sướng. Đánh với Trung Cộng mới là đánh cho nên tôi nói thật với các ông, đánh trận này, tụi tôi đi đánh trước. Cấp đại tá, trung tá, thiếu tá đánh trước, đánh cho họ biết người Việt Nam là như thế nào, đánh một trận cho họ từ bỏ ý định, bớt hung hăng, sau khi chúng tôi chết hết rồi mới đến cấp úy các ông đi đánh”.
Theo lời kể của đại tá Nguyễn Thành Trung, lúc bấy giờ tất cả phi công đều tình nguyện ký vào lá đơn “Thề được chết cho Hoàng Sa”. Tất cả phi công đều tuyên thệ sẵn sàng chết cho Hoàng Sa và ai cũng coi đó là cái chết rất vinh hạnh. “Trận đánh này chúng tôi chuẩn bị rất kỹ và phần thắng là chắc chắn 100%, vì tàu không thể chạy nổi. Mỗi tàu một quả bom là xong và khí thế ấy nó luôn hừng hực trong lòng mỗi người Việt Nam, hừng hực trong mỗi phi công”.
Không quân ViÇt Nam CÙng Hòa lên k¿ ho¡ch giành l¡i Hoàng Sa 3
Không quân ViÇt Nam CÙng Hòa lên k¿ ho¡ch giành l¡i Hoàng Sa 4
Chiến đấu cơ F-5 của Không quân Việt Nam Cộng Hòa - Ảnh: Tư liệu
“Mấy ông cấp tá, mấy ông lãnh đạo, chỉ huy phát biểu trong cuộc họp rằng: Đánh với Việt Cộng là chỉ đánh chơi thôi, không có sướng. Đánh với Trung Cộng mới là đánh cho nên tôi nói thật với các ông, đánh trận này, tụi tôi đi đánh trước. Cấp đại tá, trung tá, thiếu tá đánh trước, đánh cho họ biết người Việt Nam là như thế nào, đánh một trận cho họ từ bỏ ý định, bớt hung hăng, sau khi chúng tôi chết hết rồi mới đến cấp úy các ông đi đánh”.
Theo lời kể của đại tá Nguyễn Thành Trung, lúc bấy giờ tất cả phi công đều tình nguyện ký vào lá đơn “Thề được chết cho Hoàng Sa”. Tất cả phi công đều tuyên thệ sẵn sàng chết cho Hoàng Sa và ai cũng coi đó là cái chết rất vinh hạnh. “Trận đánh này chúng tôi chuẩn bị rất kỹ và phần thắng là chắc chắn 100%, vì tàu không thể chạy nổi. Mỗi tàu một quả bom là xong và khí thế ấy nó luôn hừng hực trong lòng mỗi người Việt Nam, hừng hực trong mỗi phi công”.
Kế hoạch không
kích, theo lời ông Trung, là tuyệt mật, chỉ có những người tham gia mới
biết. Chỉ huy cấp cao trong quân đội, nếu không có nhiệm vụ liên quan
trực tiếp tới việc triển khai chiến dịch, đều không biết được.
Một kế
hoạch phản công được chuẩn bị công phu với “khả năng chiến thắng là
100%”, nhưng rốt cuộc đã không thể diễn ra vì Tổng thống Thiệu đã nhận
được cảnh báo “không hành động khinh suất” từ Mỹ. Lúc bấy giờ, Mỹ đã làm
lành với Trung Quốc và chấp nhận làm ngơ để Trung Quốc cưỡng chiếm
Hoàng Sa.
Đối với những người như đại tá Nguyễn Thành Trung, 40 năm
đã trôi qua nhưng những kỷ niệm ngày ấy vẫn còn mới nguyên, và trong
lòng mỗi một cựu phi công F-5 thuở nào luôn canh cánh một nỗi niềm, rằng
đã không được chiến đấu và được chết trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa
thân yêu.
“Nếu ngày đó chiến dịch diễn ra đúng kế hoạch thì bây giờ và các thế hệ con cháu đỡ biết bao nhiêu. Bây giờ Trung Quốc đã chiếm đóng bất hợp pháp ở Hoàng Sa rồi, cái di sản, cái gánh nặng để lại cho các thế hệ con cháu Việt Nam thật là quá nặng nề”, ông Trung nói.
“Nếu ngày đó chiến dịch diễn ra đúng kế hoạch thì bây giờ và các thế hệ con cháu đỡ biết bao nhiêu. Bây giờ Trung Quốc đã chiếm đóng bất hợp pháp ở Hoàng Sa rồi, cái di sản, cái gánh nặng để lại cho các thế hệ con cháu Việt Nam thật là quá nặng nề”, ông Trung nói.
Đỗ Hùng - Tấn T
No comments:
Post a Comment